"A còng"
Trước hết, "a còng" (@) là một ký tự
được cả
thế giới dùng trong địa chỉ thư điện tử (e-mail) với
cách phát âm là "at sign". Nguồn gốc của chữ @
bắt đầu từ chữ a (a thường), viết tắt của chữ at (nơi, tại). Đầu tiên, giới buôn bán dùng
tiếng Anh, thay vì viết at the price of… (với giá là…), họ viết tắt là @.
Ví dụ M có giá là X, họ viết M@X.
Tại
Việt Nam, chữ @ được
giới trẻ thời bấy giờ gọi đùa là "a còng", xuất phát từ việc nó có dấu móc cong ra ngoài, trông giống như dáng người còng. Xuyên suốt
thời gian, người ta "gọi nhiều quen miệng" và "a còng" trở thành cách gọi tên chính thức của ký tự @ mãi tới ngày nay, dù chẳng hề có văn bản quy định nào liên quan tới cách gọi tên của nó.
"Quán nét"
Những năm đầu
Internet vào Việt Nam, số người
sở hữu máy vi tính tại
nhà hoặc được sử dụng ở nơi
làm việc có lẽ chỉ chiếm vài % trên tổng số người dùng Internet trên cả nước. Thay vào đó, những người hiếu kỳ trước
công nghệ mới này, chủ yếu là giới
trẻ, thường tìm đến các quán nét - là những nơi cung cấp thiết bị,
kết nối Internet, và thu phí người dùng theo lượng thời gian sử dụng.
"Quán nét" cũng chính là "mảnh đất cội nguồn", nơi sinh ra hàng loạt tên gọi,
thuật ngữ,
trào lưu của giới trẻ mà vẫn còn lưu truyền
cho tới ngày nay.
"Lên mạng"
Kể từ khi Internet xuất hiện, người ta bắt đầu nghĩ đến một cách gọi để áp dụng cho
hành động truy cập Internet để tìm kiếm, sử dụng thông tin, và giới trẻ lúc bấy giờ đã nghĩ ra từ "lên mạng". Mãi cho tới nay,
cụm từ này vẫn được sử dụng cho các
mục đích tương tự, thí dụ như "
Tài liệu này em lên mạng tìm rồi tải về nhé",
hay "Hôm nay lên mạng tìm được bộ
ảnh đẹp lắm!".
Sau đấy, hàng loạt cụm từ gần
nghĩa dần dần được giới trẻ "phát minh" ra, rồi sử dụng một cách
rộng rãi như "
lướt web", "lướt net", "đi net"...
Ít ai biết rằng trước khi mô hình "quán nét" ra đời, giới trẻ chỉ biết tới một khái niệm đó là "quán game" - vốn là những địa điểm có trang bị máy vi tính cấu hình cao, có cài đặt sẵn trò chơi và cho phép người chơi kết nối với nhau thông qua mạng LAN nội bộ.
Sau này khi Internet
hội nhập vào Việt Nam, mô hình này chia ra làm 2 nhánh, đó là "quán game" truyền thống, và những "quán nét" với máy cấu hình thấp hơn, hay còn gọi là "Cafe Internet" chỉ gồm những máy tính có cấu hình thấp để
phục vụ cho các
nhu cầu chat Yahoo, duyệt
email, lướt web,...
Chơi
game online mang đến nhiều hệ lụy như không chỉ tốn nhiều thời gian,
tiền bạc; mà khi đã quá
say mê với những trò chơi trực tuyến,
các bạn trẻ cũng dễ dàng bị tiêm nhiễm và
cuộc sống cũng chỉ xoay quanh các trò chơi. Điều này khiến các bậc
phụ huynh lúc bấy giờ hết mực
phiền não khi Internet ngày càng phổ biến tại Việt Nam.
"Chát chít"
Bên cạnh game online thì "chat" - tức ám chỉ hành động
trò chuyện với nhau trên Internet qua một công cụ
nhắn tin nào đó, cũng được giới trẻ say mê trong những năm đầu Internet mới về Việt Nam. Phương tiện này đã khiến mọi người
có thể rút ngắn được
khoảng cách địa lí, giao lưu
kết bạn được với nhiều người hơn.
Đây cũng là thời kỳ huy hoàng của Yahoo!, hay chính xác hơn là Yahoo! Messenger khi hầu như tất cả người dùng Internet đều sử dụng dịch vụ chat này và làm quen với nó. Mãi sau này khi
Facebook,
Zalo ra đời cùng với sự đi xuống của YM!, người ta mới rời bỏ phương tiện đã tạo nên ký ức của biết bao thế hệ 8x, 9x thời bấy giờ.
"Cứu nét"
"Cứu nét", một thuật ngữ không còn quá lạ lẫm đối với những ai sử dụng Internet từ những ngày đầu tiên. "Cứu nét" được hiểu là trả
tiền "chat", tiền Internet, tiền
ăn uống,... cho các
cô gái ở quán net vì không đủ tiền để thanh
toán với chủ hàng.
Do việc tiếp cận với Internet từ 20 năm trước hầu hết là
người trẻ, nên một số
thói quen, xu thế sử dụng Internet lúc bấy giờ rất trẻ trung,
cá tính và mang đậm tính "màu mè". Trong đó bao gồm cả những
ký tự đặc biệt, hay còn gọi chung là "ngôn ngữ tuổi teen" đã được sớm định hình từ ngay khi Internet đặt chân tới Việt Nam.
Những dòng chữ đại loại như: "Hum ni m en kum hem, j en mì zịt tìm đêy, thèn ku hum bữa beo, hêhê, 6h wa hey” (câu đúng là: Hôm nay mày
ăn cơm không, đi ăn mì vịt tiềm đi, thằng cu hôm bữa bao, 6h qua nhé?), "A.pít.chìu.e.pan.
E.j.cug.pan.ui.zia.mai.j.en.tc.cui.zoi.A.A.toi.rc.E.ok" (Anh biết chiều em bận. Em đi cùng
bạn rồi về, mai đi ăn tiệc cưới với anh. Anh tới rước em nhé?),... xuất hiện khá nhiều và thậm chí thành trào lưu.
Đối với những
học sinh, sinh viên trường quốc tế, hàng ngày tiếp xúc với tiếng Anh trong
giao tiếp, sinh hoạt thì lại có kiểu viết tắt bằng tiếng Anh. Phổ biến nhất là các từ như
PLZ có nghĩa là please (làm
ơn), hay OMG là
Oh my God (
chúa ơi!)... Chỉ riêng với
WC đã
vận ra đủ nghĩa: Welcome (chào mừng) hay
Webcam (hình ảnh). Hay từ cám ơn (thanks you) cũng được viết tắt bằng đủ mọi thể loại: Thx, Thks, Tx hay Thaxu.
Việc sử dụng những ký hiệu trên bàn phím máy tính cũng dần trở thành một "chuẩn mực" của việc bộc lộ
cảm xúc người viết. Thay vì phải nói tôi
buồn, chỉ cần gõ T _T, tức một khuôn mặt đang
khóc với 2 hàng nước mắt là chữ T. Còn
vui ư, chuyện nhỏ, chỉ cần ^^ là người
đọc biết ngay chủ nhân của nó đang vui hay có chuyện
hài lòng. Trạng thái
tức giận thì được biểu hiện bằng >.< rất
ngộ nghĩnh. Còn muốn nói
yêu hay thích ai đó thì chỉ cần 2 ký hiệu
đơn giản <3 là biểu tượng của
trái tim.
Ngay từ khi mới hội nhập Internet, chúng ta có trong tay công cụ tìm kiếm cực kì
mạnh mẽ mang tên Google. Thế nhưng rất ít người biết đến chức năng này cũng như cách để sử dụng nó. Nguồn thông tin chính mà chúng ta
nắm bắt được trên Internet lúc bấy giờ có lẽ chỉ đến từ những pop-
up hiện lên từ cửa sổ Yahoo! News, hoặc các thông tin được
chia sẻ trên Yahoo! Messenger.
20 năm sau khi Internet phổ cập vào Việt Nam, việc tìm hiểu và tải về bất cứ thứ gì trên Internet đã trở nên đơn giản hơn rất nhiều với Google. "Trên Google cái gì cũng có" - đến cả một người không mấy am hiểu về công nghệ cũng có thể nói như vậy. Và rồi thuật ngữ "hỏi Google" đã ra đời, được dùng như một từ khá phổ biến để mách nước cho những ai đang tìm lời giải đáp.