Lửa có sức mạnh, nhưng nước có thể dập tắt nó.
Nước có sức mạnh, nhưng
Mặt trời có thể khiến nó bốc hơi.
Mặt trời có sức mạnh, nhưng mây có thể che khuất nó.
Mây có sức mạnh, nhưng gió có thể thổi tan nó.
Gió có sức mạnh, nhưng núi cao có thể chặn nó.
Kẻ chinh phục có sức mạnh, nhưng
cái chết có thể uy hiếp kẻ đó.
Cái
chết có sức mạnh, nhưng người
tu luyện có thể chế phục nó.
Qua đó
cho thấy, người có
tín ngưỡng là kẻ mạnh, người đó có thể dựa vào tín
tâm để vượt qua
khó khăn, phá vỡ sự
cản trở, tiến bước đến
tương lai, ngay cả cái chết cũng không
sợ. Có
trí huệ là kẻ mạnh, người đó sẽ hiểu lý lẽ, biết phân biệt đúng sai, có thể nhìn vào nguồn gốc phát sinh sự việc,
lý trí và
quyết đoán, tự giúp mình và
giúp người. Người
khiêm tốn hiền lành là kẻ mạnh, người đó có thể không gây tai hoạ,
nhẫn nhục chịu đựng, lấy nhu thắng cương.
Không có kẻ mạnh tuyệt đối, vì trong kẻ mạnh còn có kẻ mạnh hơn, ngoài bầu trời này còn có bầu trời rộng lớn hơn.
Đối với
con người mà nói,
từ bi là vĩ đại nhất, nhân quả là mạnh nhất.
Con người đều
hy vọng mọi người có thể
công bằng đối đãi với mình. Tuy nhiên, “về lý,
Phật tính là
bình đẳng”, nhưng “sự việc lại do nhân quả mà
khác biệt”. Pháp lý ở thế gian do chịu sự
chủ quan và
tình cảm của cá nhân chi phối, vì thế rất khó để có sự bình quân tuyệt đối. Thậm chí pháp luật cũng thường xuyên bị chi phối bởi các nhân tố
khách quan, khó có thể giành
được sự công bằng tuyệt đối.
Sự công bằng tuyệt đối chính là “nhân quả”. Cho dù là quan lại quyền quý hay là kẻ buôn bán nhỏ lẻ, không một ai có thể trong quy luật nhân quả “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” mà được khoan hồng hay đối xử khác biệt.
Hai chữ “nhân quả” ai ai cũng có thể nói, nhưng
ý nghĩa của nó thì không phải người nào cũng hiểu.
Người trần tục chỉ hiểu chữ “quả”, không thể hiểu chữ “nhân”; Chính là nguyên nhân
câu nói “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”.
Con người, khi tạo ra các loại “nhân” ác, mà không biết sự nghiêm trọng của nó; Một khi “quả” báo đến, thì mới biết tai
họa tày trời, tiếc thay
hối hận thì đã
muộn.
Nhân quả tích tụ qua đời đời kiếp kiếp, quy luật của thế gian.
Thông thường con người khi gặp phải
thất bại, sẽ
oán trách trời đất,
hận đời hận người. Họ không biết rằng do “nhân” không chính, mới dẫn đến “quả” của ngày hôm nay. Con người trong xã hội này, thông thường chỉ nhìn cái thứ nhất, mà không nhìn cái thứ hai.
Ví dụ, có người trách
bố mẹ không từ bi (
kết quả), nhưng lại không biết bố
mẹ không từ bi nguyên do là
con cái không
tốt (nguyên nhân).; Có người lại trách con cái
bất hiếu (kết quả), nhưng lại không biết rằng bố mẹ
làm việc thất
đức (nguyên nhân), mới dẫn đến tình cảnh này. Vì thế, bất kể việc gì cũng không “theo kết quả mà đi tìm nguyên nhân” thì làm sao có thể biết chân tướng của sự việc, làm sao có thể tìm lại được sự công bằng?
Có những người không rõ nhân quả, thường xuyên hiểu nhầm luật nhân quả. Ví dụ như những người
ăn chạy niệm phật, từ bi hành thiện, tại sao lại vẫn gặp nhiều
bất hạnh? Sự công bằng của “nhân quả”
ở đâu? Thật tình họ không biết rằng, những người này vẫn còn
chồng chất “món
nợ nhân quả” vẫn chưa hoàn trả, không thể bởi vì
hiện tại là
người tốt, đã
làm việc thiện, liền không phải trả những món nợ trước đây.
Cũng như thế, có người không ngừng làm điều ác,
trộm cướp dâm tà, nhưng lại
tận hưởng vinh hoa
phú quý, nhân quả ở đâu? Đó là bởi vì họ vẫn còn có “nhân quả
phúc báo”, do đó không thể bởi vì hiện tại họ
làm việc ác, liền không cho họ tận hưởng thiện báo trước đây. Vì thế, “nhân quả” có
quá khứ, hiện tai và tương lai, là 3 mối liên hệ
tuần hoàn đó.
Khi chúng ta nhìn thấy một cái cây đơm hoa kết quả, liền nghĩ rằng chắc chắn có người gieo “nhân” nảy mầm. Khi chúng ta nhìn thấy có người từ bi hành thiện, sẽ biết rằng tương lai chắc chắn sẽ có kết quả tốt đẹp.