Hòa thượng đầu thai thành khỉ vì một lời ác khẩu
Đi
được nửa đường, khi Phật và chúng tăng dừng chân
nghỉ ngơi dưới một tán cây to ven hồ, bỗng một
con khỉ từ trên cây nhảy xuống, xin mượn chiếc bát trong tay Phật. Sau khi đón nhận chiếc bát từ Phật rồi nhanh chóng rời đi, chỉ một chốc đã thấy nó quay lại. Nó cung kính dâng chiếc bát chứa đầy mật ong lên cho Phật.
Phật nhận bát mật ong, chia đều cho các tăng nhân để khỉ có thể nhận được càng nhiều
phúc báo hơn. Khỉ ta thấy vậy, thích thú nhảy múa xung quanh. Một
thời gian sau, khỉ
chết được chuyển kiếp thành người, sinh ra trong gia đình Shizhi. Khi đứa
trẻ này được sinh ra, mọi bát đĩa nồi niêu trong
nhà đều đựng đầy mật ong.
Vợ Shizhi lấy làm lạ, bèn đặt tên cho đứa trẻ là Mật Thăng.
Sau khi được cha
mẹ cho phép, Mật Thăng đã đến tịnh xá quy y cửa Phật.
Do thiện
duyên từ
kiếp trước, anh rất nhanh đã
tu thành chính
quả.
Một lần, trên đường ra ngoài đi hoá duyên cùng các hoà thượng khác, mọi người khi đó đều cảm thấy khát khô cổ họng, ai cũng muốn có một cốc đồ uống. Lúc này hoà thượng Mật Thăng liền tung chiếc bát không của mình lên trời, khi hai tay giơ ra đón lại, chiếc bát đã chứa đầy nước mật tươi ngon, Mật Thăng liền đưa cho các hoà thượng khác để giải khát.
Khi trở về tịnh xá, một hoà thượng đã nói với Phật: “Trước kia Mật Thăng đã tu được phúc gì? Tại sao mọi lúc mọi chỗ đều có thể dễ dàng cầu xin được mật ong?”
Đức Phật đáp: “Các ngươi có
nhớ cách đây rất lâu, có một
con khỉ đã mượn chiếc bát đi lấy đầy mật để dâng lên Phật và chúng tăng
hay không? Vì
thiện tâm đó, nên khi chết nó đã được chuyển kiếp
làm người, và vì người đó thành tâm, tiến cúng nước mật, nên bây giờ bất cứ lúc nào cũng có thể có được mật”.
Nghe Phật nói xong, chúng tăng lại hỏi: “Thưa
Đức Phật, vậy kiếp trước của Mật Thăng vì lí do gì lại bị đày làm khỉ ạ?”
Lúc này có rất nhiều đệ tử đều vây quanh, Đức Phật nhìn một lượt các hòa thượng, chậm rãi nói: “Mật Thăng bị đày thành kiếp khỉ, là việc của 500 năm trước, đó là khi Phật Ca Diệp Như Lai còn tại thế. Khi đó có một vị hòa thượng trẻ tuổi, tình cờ trông thấy một hòa thượng khác nhảy qua một con suối nhỏ, liền
cười nói trông bộ dạng hòa thượng kia cứ như con khỉ, do đó đã phạm vào
tội ác khẩu và bị đày làm kiếp khỉ.
Sau đó hòa thượng đó đã nhận ra tội lỗi của mình, đã sám hối với vị hòa thượng kia để không bị đày xuống
địa ngục chịu tội. Cũng vì cái kết duyên đó, con khỉ mới có thể gặp được Phật, kiếp này mới nhanh chóng thành chính quả như vậy”.
Thời Đức Phật còn tại thế, trong thành Xá Vệ có một trưởng giả rất
giàu có tên là Bộ Tri Ca. Người này cha mẹ
mất sớm nên không được
giáo dục tử tế, tính tình lì lợm cứng đầu, rất dễ
nổi nóng.
Mỗi lần nổi cơn sân
hận, Bộ Tri Ca thường thốt ra những lời lẽ khó nghe, nên càng ngày càng bị
người thân, thuộc hạ
xa lánh.
Đến khi lâm bệnh nặng, không có lấy một người đến hỏi thăm. Bộ Tri Ca nằm liệt giường bởi không ai biết, cũng chẳng ai giúp gọi đại phu tới khám bệnh cho ông.
Đến lúc này, Bộ Tri Ca mới tỉnh
ngộ nhận ra khẩu
nghiệp mình đã gây ra trong suốt cuộc đời khiến giờ đây ông phải ngậm quả đắng, khi thân lâm bệnh tật mà cô đơn không một người thương mình ở bên.
Chúng ta cũng vẫn thường gặp rất nhiều những “Bộ Tri Ca” như thế trong
cuộc sống, không chỉ ở thời đại của Đức Phật mà cho tới tận bây giờ.
Những người có tính tình thô bạo, hay
chỉ trích và nổi nóng với người khác, đôi khi lại được gọi là những người “thẳng tính”, “bộc trực”. Tuy nhiên, ranh giới giữa việc ưa “nói thẳng, nói thật” với hay “nói lời thô bạo” lại rất mong manh, nếu không tỉnh giác có thể khiến
bạn sa vào ác khẩu lúc nào không hay.
Trong “Thập thiện nghiệp
đạo Kinh” Đức Phật có dạy rằng: “Ác khẩu là nói lời thô ác, mắng chửi, nguyền rủa. Sự tai hại không hề nhỏ“.
Thực tế cuộc
sống quả đúng như vậy, lời nói thô ác thường tạo ra hố sâu ngăn cách giữa người với người, đôi khi còn khiến người ta thù địch nhau, chém giết nhau chỉ vì một trận
cãi vã.
Tất nhiên, “nói thẳng nói thật” hay “thuốc đắng giã tật,
sự thật mất lòng” không đồng
nghĩa với ác khẩu. Muốn biết một lời nói ra có phạm ác
khẩu nghiệp hay không, cần xét đến hai yếu tố: động
cơ và
kết quả.
Có thể kể tên Đạo sư Do Khyentse –
người thầy hướng dẫn của đạo sư Patrul Rinpoche, một vị
thầy rất
nổi tiếng ở Tây tạng đầu thế kỷ XIX.
Chuyện kể rằng, một lần Khyentse mắng học trò với lời lẽ rất khó nghe và giơ
ngón tay út ra (một cử chỉ nhục mạ) khi phát hiện ra một suy nghĩ
xấu nơi chàng trai trẻ. Ngay sau thời điểm đó, người học trò nhập
thiền và chứng đắc một kinh nghiệm tỉnh giác nội tại vô cùng quý giá.
Trong câu chuyện này, việc mắng chửi học trò nhìn bề ngoài có vẻ rất xấu, rất tệ, nhưng ẩn sâu trong đó là một động cơ
tốt, hơn thế lại đem đến kết quả tốt, do vậy đó không phải là khẩu nghiệp mà thực ra lại là một phương tiện thiện xảo của người thầy tốt muốn giúp học trò
tiến bộ.
Do vậy, mới nói, để xét một lời nói thô ác có phải
ác nghiệp hay không, cần xét đến hai yếu tố “động cơ” và “kết quả”.
Tuy thế, có lẽ chuyện tương tự như trên ngoài đời thực không nhiều, nếu không nói là rất hiếm gặp. Bởi hầu hết mọi người sẽ khó đạt được kết quả lí
tưởng như người học trò kia – sau khi nhận một lời mắng chửi. Thay vào đó, “kết quả” thường là sự đổ vỡ quan hệ giữa hai bên.
Các
lời dạy của nhà Phật thường hay nhắc nhở, trong
ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý, thì “Ý nghiệp” tuy vô hình nhưng lại là chủ, từ “không” mà “thành sự” đều do “ý” là điểm
bắt đầu – chính là để nhấn mạnh vai trò của “động cơ” trong lời nói.
Với những người vốn có
tính cách bộc trực, muốn “nói thẳng nói thật” – tức là
bản chất là có “
tâm tốt”, nhưng để lời nói của mình không gieo nhân xấu, hãy luyện tập trước khi nói điều gì đó tự đặt 5
câu hỏi sau đây:
1. Nói có đúng lúc không?
2. Nói có đúng sự thật không?
3. Nói có tốt cho người nghe không?
4. Nói có đi cùng
thái độ hòa nhã không?
5. Nói có xuất phát từ động cơ tốt không?
Có lẽ những người vẫn cho rằng mình “nói thẳng nói thật” mà lại thường
nhận lại sự “mất lòng” từ người khác trong cuộc sống, luôn thấy các
mối quan hệ bị đổ vỡ sau lời mình nói, nên
cân nhắc những điều trên.
Bởi nhiều khi, chúng ta mặc định mình “nói thẳng vì muốn tốt” nhưng không hề biết rằng chính thái độ không hòa nhã đã làm hỏng tất cả.
Trong kinh Tạp A Hàm, Phật khuyên người đệ tử cần phải suy nghĩ trước khi nói: “Nếu ta không thích người khác nói lời thô ác với mình, thì người khác cũng như thế. Vậy tại sao với người khác, ta lại mạ nhục họ?”
Việc thường xuyên đặt ra những câu hỏi nêu trên trước khi “nói thẳng nói thật” sẽ giúp chính người nói
kiểm soát cơn giận, bởi luyện khẩu cũng chính là điều tâm.