Đạo của người vợ theo tiêu chuẩn xưa
2. Người vợ phải giống như nước “ở vào vật chứa hình vuông thì sẽ có hình vuông, vật chứa hình tròn thì là hình tròn”. Ý nói, người vợ phải thích ứng được mọi hoàn cảnh, giàu
nghèo, cao thấp. Người vợ giống như nước,
có thể nuôi dưỡng được vạn vật mà lại không cùng vạn vật tranh chấp, luôn ở chỗ trũng nhất, khi đến chỗ thấp thì chảy xuống giống như
đức tính
nhường nhịn và
bao dung của người phụ nữ.
3. Trong gia đình mà người vợ
nhiều chuyện thì người
chồng sẽ không làm được việc và sẽ trở nên trầm lặng. Người vợ không nhu hòa thì gia
tài không hưng vượng.
4. Người vợ
đừng là người vừa cứng vừa hung bạo, đừng
nóng nảy, đừng dài dòng nhiều chuyện, lại càng không nên
quản lý việc của chồng, thay vào đó nên trợ giúp chồng chứ không nên gây phiền lụy cho chồng.
5. Người vợ trước hết phải có “tính theo thiên lý”, “tâm theo đạo lý” và “thân theo tình lý” mới có thể định trụ được vị
trí của mình và trợ giúp chồng
hoàn thiện phẩm chất,
đạo đức.
“Tính theo thiên lý” là loại bỏ đi những
tính cách xấu để làm cho bản tính của mình trở về với bản tính
tốt đẹp ban đầu, là bản tính trời sinh, như thế mới có đức dày để nâng đỡ mọi vật.
6. Nếu một người vợ mà vừa hung bạo, quản người chồng, “chèn ép” người chồng,
lời nói tựa như “tiếng sét đánh”, “một tay che trời” được gọi là “hãn phụ” tức là người phụ nữ đanh đá, chua ngoa. Một người phụ nữ như thế này sẽ khiến gia đình “âm thịnh dương suy”, “người chồng chưa
già đã yếu”, thậm chí sinh ra người con cũng không
có ích cho xã hội.
7. Người vợ mà không làm việc gì, việc gì cũng
ỷ lại vào người chồng, ỷ lại vào
cha mẹ được gọi là “nhược phụ” (người phụ nữ yếu kém). Người vợ như thế, “hết
ăn lại nằm”, “oán trời trách đất”, quét sạch
may mắn của gia đình.
8. Người vợ là người làm
bình ổn mọi sự bất hòa trong gia đình, là sứ giả đem lại may mắn, cát tường cho gia đình. Họ
đối xử bình đẳng với mọi người,
ôn hòa và là
phúc khí của gia đình.
9. Một gia đình có yên
vui hay không, an tĩnh hay không,
thịnh vượng phát đạt hay không thì sự ảnh hưởng của người vợ là vô cùng trọng yếu. Người phụ nữ có thể dưỡng tính như nước thì nhất định sẽ sinh được quý tử, giúp chồng thành đức, gia đình
viên mãn.
Quan niệm về vai trò của người phụ nữ trong
xã hội ngày nay có nhiều
thay đổi, người phụ nữ ngày nay
gánh vác chức vị có thể nói là ngang với
nam giới. Nhưng dù là thời nào thì một người phụ nữ hiểu đạo vẫn luôn được gia đình
tôn trọng và xã hội tôn vinh.
Người vợ tốt là cái phúc của người chồng
Khương Thi là người vùng Quảng Hán, Tứ Xuyên, thời đại Đông Hán. Đến tuổi
trưởng thành, Khương Thi lấy
cô gái tên là Bàng Tam Xuân làm vợ.
Vợ chồng Khương Thi và Bàng Tam Xuân phụng dưỡng mẹ vô cùng hiếu thuận.
Mẹ chồng Tam Xuân rất thích
uống nước sông vì thế, cô thường đi đến một nhánh sông lớn cách
nhà hơn bảy dặm để lấy nước về nấu cho mẹ chồng uống. Mẹ chồng cô cũng rất thích ăn
cá chép. Vì vậy, hai vợ chồng Khương Thi thường đi bắt cá chép về hầm cho mẹ ăn.
Về sau này bởi vì người cô chồng gây xích mích nên giữa hai vợ chồng Khương Thi và Tam Xuân phát sinh sự
hiểu lầm lẫn nhau. Khương Thi nghe lời mẹ đuổi vợ về nhà mẹ đẻ của cô. Mặc dù Tam Xuân bị đuổi về nhà mẹ đẻ nhưng trong lòng cô không hề
oán giận hay
trách móc chồng và mẹ chồng.
Hàng ngày Tam Xuân
sống trong gian nhà tranh nhỏ, không quản ngày đêm dệt vải rồi mang bán lấy
tiền. Bán được tiền rồi, cô lại mua gạo, mua thịt rồi mang đến biếu mẹ chồng.
Con trai của vợ chồng Khương Thi lúc ấy mới bảy tuổi tên là Khương An nhưng rất
hiểu chuyện.
Cậu bé sợ rằng mẹ mình ở nhà tranh sẽ không đủ gạo để ăn nên mỗi ngày đi
học cậu bé lại lấy một ít gạo cho vào túi và để ở một chỗ trong ngôi miếu thờ Thổ Địa trên đường. Sau một
thời gian tích trữ được một túi gạo lớn, Khương An mang số gạo đó đến thăm người mẹ đang bị oan khuất của mình.
Lúc Khương An mang gạo đến cho mẹ, Tam Xuân bốc một nắm gạo lên xem thì phát hiện gạo có
màu sắc, kích cỡ khác nhau.
Cô lập tức hỏi con trai mình: “Khương An, số gạo này là con lấy từ đâu?”
Cậu bé thấy mẹ hỏi vậy đành phải bẩm báo thật. Tam Xuân nghe con trai kể xong, liền
ôm lấy cậu bé vào lòng và hai
mẹ con họ cùng
khóc nức nở một hồi.
Về sau, chồng và mẹ chồng của Tam Xuân hiểu ra cô bị oan khuất nên đã đón cô về nhà. Ngay sau ngày cô trở về nhà chồng, trong vườn nhà họ bỗng nhiên có một dòng suối phun trào ra. Hương vị của nguồn nước cũng khác với nước sông.
Hơn nữa, thỉnh thoảng lại có một, hai con cá chép từ trong nguồn nước ấy nhảy ra. Từ đó về sau, Tam Xuân dùng nguồn nước này để nấu cho mẹ chồng uống mà không cần phải đi ra bờ sông xa hơn bảy dặm để lấy nước như trước đây nữa.
Sau này, quân khởi
nghĩa Xích Mi thời Đông Hán khi đi ngang qua nơi đây, người thủ lĩnh biết được chuyện Tam Xuân hết
lòng hiếu thảo phụng dưỡng mẹ chồng nên đã lập tức xuống ngựa, truyền lệnh
ba quân lặng lẽ hành quân, tránh quấy nhiễu đến sự
bình yên của nơi đây.
Cũng từ đó trở đi, mỗi lần quan lại đi qua nơi đây đều thi hành
lễ, quan văn thì hạ kiệu, quan võ thì xuống ngựa, dần dần trở thành truyền thống. Lòng hiếu thảo của Tam Xuân đối với mẹ chồng thật sự làm cảm động trời đất và lòng người.
Các bậc thánh hiền xưa đều giảng rằng, gia đình có tầm quan trọng đối với sự thịnh suy của một quốc gia. Trong cuốn
sách nổi tiếng “Kinh Dịch” có viết: “Gia đình
ổn định thì quốc gia mới vững vàng”.
Trong “Kinh Lễ” cũng viết: “Các gia đình có nền nếp
gia phong thì quốc gia sẽ được cai trị tốt”. Mà một gia đình có hòa thuận, hưng thịnh hay không thì vai trò của người vợ là rất quan trọng. Vì vậy, từ xưa đến nay dù trong gia đình hay ngoài xã hội, thì một người vợ tốt, người con dâu hiếu đạo vẫn luôn được tán dương và kính trọng.