Thấy
con tiếc nuối,
đau khổ nhìn theo trái bóng bay xa dần, người
cha an ủi : “
Đừng buồn con ạ, cha sẽ mua
cho con một trái bóng khác”. Lát sau,
cậu bé vui vẻ vơi trái bóng mới, không còn nghĩ ngợi gì tới trái bóng đã
mất nữa. Câu chuyện
kết thúc với lời bàn rằng, đó là một người cha
giàu có, nhưng đứa con của ông rồi sẽ
nghèo túng về
tinh thần.
Trong
ánh mắt của đứa
trẻ nhìn theo trái bóng bay xa dần có một bầu trời phóng nhiệm. Đó là khi đứa trẻ
có thể bắt đầu có những
cảm nhận mơ hồ nhưng rất trực quan về sự rộng lớn của
thế giới, từ đó nhận ra sự hữu hạn của bản thân mình. Thế nhưng, người cha của cậu bé đã
vô tình phá vỡ không gian phóng nhiệm này.
Can thiệp một cách vô thức và có hệ thống
Người cha ấy cũng như đa số
người lớn chúng ta thường
sợ hãi trước sự trống trải trong
tâm tưởng và gán cho nó
ý nghĩa tiêu cực. Chúng ta xua đuổi nó bằng cách
tự làm bận rộn bản thân mình với những
suy nghĩ tính toán lấp đầy trong tâm
trí. Tương tự như vậy, chúng ta tìm cách xua đuổi sự trống trải khỏi
đầu óc con trẻ, lấp đầy
tâm trí của chúng bằng những món đồ chơi. Mà nếu để ý ta thấy rằng hầu hết các món đồ chơi – từ búp bê bé xinh tới chiếc
ô tô bằng nhựa nho nhỏ – đều chỉ nhằm thu nhỏ không gian trong tâm trí đứa trẻ, tạo cho nó cảm giác mình đang xâm chiếm và
làm chủ không gian riêng một cách tuyệt đối.
Tạo hóa đã ban cho
con người bản năng thiên tính là cảm giác
nhàm chán, nhằm giúp ta vượt thoát ra khỏi những không gian giả tạm chật hẹp. Bởi vậy, dù món đồ chơi có tinh xảo đến đâu thì đứa trẻ sớm
muộn sẽ cảm thấy nhàm
chán và không còn
thỏa mãn với không gian hẹp mà món đồ chơi xinh xắn mang lại. Sự trống trải xâm nhập tâm trí nó, ngầm nhắc nhở rằng ở ngoài kia là một không gian rộng lớn hơn, thật hơn, tự nhiên hơn, mà sớm muộn nó phải
đối diện và tìm cách
thích nghi. Thế nhưng, người lớn không cho con trẻ
cơ hội được thích nghi với không gian rộng lớn xa lạ ấy. Họ xua đi nỗi nhàm chán và nỗi trống trải trong đứa trẻ bằng cách tiếp tục mua về những món đồ chơi mới, cái sau
cuốn hút hơn cái trước.
Cứ như vậy, đứa trẻ trở nên
nghiện cảm giác lấp đầy tâm trí. Tới một ngày kia nó
chủ động tự làm bận rộn tâm trí của mình với những
cám dỗ từ trò chơi điện tử,
phim hoạt hình,
sách comic và manga, v.v. Mặc dù các
ông bố bà
mẹ vẫn có thể tạo
cơ hội để trẻ tìm thấy những khoảng trống (
hay khoảng lặng) cần thiết, được khơi gợi trong những cuốn sách văn
học phù hợp với lứa tuổi của mình. Nhưng sách văn học vốn khó cuốn hút trẻ như những thứ cám dỗ khác, và không phải ông bố bà mẹ nào cũng có
thói quen chọn lọc sách
đọc cho con hoặc
đọc sách cùng con.
Ở
góc nhìn tổng quát hơn, có thể thấy việc người lớn can thiệp vào khoảng trống trong tinh thần
trẻ em là một
quá trình vô thức và mang tính hệ thống. Ngay từ khi đứa trẻ chớm hình thành
nhận thức, người lớn luôn tìm cách đáp ứng mọi đòi hỏi của trẻ một cách nhanh chóng nhất. Mỗi khi đứa trẻ gặp phải
áp lực từ một khoảng trống trong tâm tưởng, nó sẽ đưa ra một đòi hỏi nào đó mà thường thì đơn thuần chỉ nhằm giành được
sự quan tâm từ người lớn để xua đi khoảng trống mà nó đang phải đối diện.
Thế nhưng một đứa trẻ luôn được đáp ứng các đòi hỏi sẽ dễ nhàm chán với những gì mình đang có, và
giải pháp để nó
đối phó với sự nhàm chán ấy là tiếp tục cầu viện những sự trợ giúp từ bên ngoài. Tâm trí của đứa trẻ bị
bế tắc trong những chuỗi đòi hỏi liên tục và mất đi
khả năng vượt qua khoảng trống một cách tự thân. Đứa trẻ sẽ dễ trở nên
chán nản, dẫn tới
bỏ cuộc trước các vướng mắc, bế tắc trong
cuộc sống. Nó cũng sẽ không đủ lòng
kiên nhẫn để
trải nghiệm các sự vật một cách thấu đáo, và điều này làm hạn chế
năng lực thấu hiểu,
đồng cảm với con người và các sự vật xung quanh.
Kiến tạo không gian để vượt qua khoảng trống
Tự thân vượt qua khoảng trống chính là một phần trong quá trình
phát triển tự nhiên của mỗi con người. Nó là sự tự định vị bản thân mình nhằm vượt qua sự bối rối và hẫng hụt ban đầu khi phải đối diện với khoảng trống. Vào
khoảnh khắc trái bóng của cậu bé trong câu chuyện bay vút lên không trung, hay khi một đứa trẻ nào khác
đánh mất món đồ chơi
yêu thích, hoặc
đơn giản khi nào chúng gặp điều gì đó không vừa ý – một cú ngã khi đang chơi đùa chẳng hạn – đó là khi chúng đối diện với một
thực tế mới mà chúng chưa quen trải nghiệm, một không gian xa lạ với đầy những biến hóa nằm ngoài những gì đã quen biết. Ngay trong khoảnh khắc bối rối ấy, bản năng tự nhiên của con người trỗi dậy
thúc đẩy đứa trẻ tự định vị bản thân, đối diện với không gian xa lạ trước mặt, và tìm cách
tương tác với nó nhằm đạt được một vị thế hài hòa cân bằng.
Song hành với việc tự định vị bản thân là tiến trình tự lấp đầy khoảng trống bằng cách xây dựng cho mình một không gian
nội tâm phong phú riêng. Khi đứa trẻ
lắng nghe câu chuyện
cổ tích, hay khi chơi cùng những món đồ chơi, đó là khi chúng đang hình thành trong tâm trí những không gian nội tâm, với các sự vật giả tưởng và xúc cảm
cá nhân gắn với những sự vật ấy. Đây là một quá trình vừa tự xây, vừa tự
khám phá, và liên tục được bồi bổ từ những thông tin thu nhận được trong thực tế đời
sống, mà ẩn trong quá trình đó là hình dung của đứa trẻ về bản thân nó trong thế giới.
Một thế giới nội tâm
khỏe khoắn lành mạnh đòi hỏi hai yếu tố. Một là nó đủ độ phong phú để giúp đứa trẻ vượt qua áp lực từ khoảng trống mà không cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài, đặc biệt là những can thiệp quá độ từ người lớn. Hai là nó không quá méo mó xa rời thực tế, mà phản ánh được những
quy luật căn bản của
đời sống, bao hàm những
giá trị cần thiết như lòng yêu cái thiện, sự
trung thực, lòng
dũng cảm, v.v. Trong thế giới nội tâm ấy, khoảng trống không nhất thiết bị loại trừ, thậm chí cần có những khoảng trống không bao giờ nên vượt qua. Chúng chính là yếu tố giúp
nuôi dưỡng ý thức cầu tiến vươn lên, những
khát vọng hoài bão chinh phục các
mục tiêu chưa đạt tới.
Khả năng tự tạo lập không gian một cách phong phú trong nội tâm để tự định vị mình trước những hoàn cảnh mới là
chìa khóa để trẻ vững bước
vào đời. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để trẻ thấu hiểu và đồng cảm với thế giới.
Cây cầu bắc tới sự đồng cảm
Khác với quan điểm của
nhà giáo dục Phạm Toàn cho rằng cần tạo ra năng lực đồng cảm ở trẻ em trước khi hướng dẫn chúng tưởng tượng về các sự vật1, người viết bài này cho rằng năng lực đồng cảm là hệ
quả của năng lực hình dung ra các không gian. Nếu chúng ta không hình dung ra những không gian liên quan tới một đối tượng, thì
không thể có sự đồng cảm thực sự với đối tượng đó.
Cảm xúc của chúng ta về một cá nhân nào đấy không thể được khơi dậy đơn thuần từ những thông tin về tuổi tác, nguyên quán,
nghề nghiệp, v.v, mà phải từ
thân phận của người ấy, hay nói cách khác là vị thế của người đó trong không gian2, bao gồm các không gian vây bọc bên ngoài đối tượng (địa điểm,
thời gian, bối cảnh, v.v) và không gian nội tâm bên trong nhân vật. Và để có những xúc cảm thấm thía hơn, chúng ta phải xâm nhập được vào khoảng trống trong tâm can họ, để biết được họ đã
nỗ lực vượt qua áp lực từ khoảng trống ấy như thế nào. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều các tác phẩm văn học hay
điện ảnh thường tạo ra mối đồng cảm
gắn kết giữa công chúng độc giả với nhân vật bằng cách đẩy nhân vật vào giữa những khoảng trống đầy bất trắc và phải tìm mọi cách, mọi nỗ lực để vượt qua khoảng trống ấy nhằm tìm ra chỗ đứng của mình trong thế giới.
Bởi vậy, yếu tố làm toát lên
thần thái của những cậu bé
đánh giày, bà lão nhặt phế liệu, và cũng là điều khơi dậy xúc cảm thấm thía trong chúng ta, không hẳn là ở những mô tả về sự
vất vả nhọc nhằn hay những lo toan thường nhật của nhân vật, mà đôi khi lại chính là
niềm vui, niềm
hi vọng nhỏ bé
đơn sơ của họ lóe lên sau những nỗ lực bền
bỉ dồn nén. Hay yếu tố làm toát lên thần thái một người mẹ chưa chắc nằm ở những nỗ lực
kiên trì chăm lo cho
con cái mỗi ngày, mà đôi khi lại gói trọn trong một nét
cười thoáng qua trên khóe mắt chớm có nếp nhăn.
Thời khắc con người đối diện với khoảng trống của
số phận và chớm vượt qua nó bằng
sức mạnh tinh thần cũng chính là lúc
phẩm chất người được toát lên
mạnh mẽ nhất, và khiến chúng ta đồng cảm hơn hết. Đó cũng là lý
do khiến những bản nhạc không lời, tuyệt chẳng có câu từ nào, chỉ đơn thuần gợi lên
ấn tượng mơ hồ về vị thế của chủ thể trong các dạng không gian, thời gian, nhưng vẫn có thể để lại trong
lòng người nghe sự lắng đọng da diết.
Trả lại khoảng trống cho các em
Bạn đọc có thể hỏi làm sao trẻ em có thể cảm nhận được những sắc thái
tinh tế nói trên? Câu
trả lời là, năng lực cảm nhận của trẻ em tinh tế hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Chẳng thế mà trong vô số những lữ khách đi qua ga tàu điện ngầm ở New York, người dành sự
quan tâm đáng kể đầu tiên tới bài biểu diễn của nghệ sỹ violon
tài danh Joshua Bell là một em bé 3 tuổi3.
Để tạo
điều kiện giúp trẻ em phát huy và phát triển năng lực cảm nhận, hãy trả lại cho các em những khoảng trống để các em tự định vị mình và thích nghi với các
môi trường khác nhau. Khi trẻ đối diện với áp lực từ khoảng trống trong tâm tưởng và đưa ra các đòi hỏi, không nên đáp ứng những đòi hỏi này ngay tức khắc. Sự
bao bọc dỗ dành này của người lớn nhằm giúp trẻ đi đường tắt quay về trạng thái
an toàn ban đầu sẽ chỉ khiến đứa trẻ trở nên
bị động và nảy sinh
tâm lý phòng thủ, tự tạo ra rào cản cho mình trong cuộc sống. Có chăng, người lớn chỉ nên cùng
trò chuyện, thúc đẩy trẻ vượt qua cảm giác hẫng hụt tạm thời bằng cách tiếp tục khám phá, tìm kiếm, nhận biết những điều
tích cực trong một không gian
rộng mở hơn.
Chẳng hạn, thay vì
hứa hẹn mua bóng mới cho con, người cha trong câu chuyện có thể trò chuyện với con về những sự vật xung quanh trái bóng, những tán cây xanh, nóc nhà rêu mốc, những ô cửa sổ
bí ẩn, về một em bé vô danh nào đó trong tưởng tượng nhặt được trái bóng sẽ
trân trọng và trở thành
bạn thân của trái bóng ra sao, v.v.
Mục đích chính của những lời trò chuyện ấy từ người cha không nhằm an ủi em bé, mà chủ yếu kích thích
trí tưởng tượng của con trẻ, tạo ra thói quen kiến tạo không gian trong tâm tưởng ở mọi tình huống, điều sẽ giúp em
tự lực vượt qua khoảng trống trong những lần tiếp theo.
Khi mà những món đồ chơi đã mất đi ánh hào quang long lanh ban đầu và trở nên nhàm chán, người lớn không nên tìm cách lấp đầy khoảng trống trong trẻ bằng cách mua tiếp những món đồ chơi mới, mà hãy cùng trẻ chơi với những món đồ chơi cũ, trò chuyện và gợi mở để trẻ xây dựng một không gian mới trong tâm tưởng, trong đó các đồ vật tưởng chừng như cũ kỹ nhàm chán được trẻ phân công cho những vai diễn mới, qua đó tạo ra một hệ thống những xúc cảm mới từ những đồ chơi cũ.
Đọc sách cùng con trẻ là biện pháp tuyệt vời để giúp trẻ thoát ra ngoài
cái tôi cố hữu, tự hình dung bản thân trong những không gian bên ngoài mình, sống trong những
cuộc đời khác, tâm thế khác, giúp hình thành trong các em cái nhìn sâu và rộng hơn trước mọi sự vật. Bên cạnh đó, hãy thường xuyên đặt thật nhiều
câu hỏi về không gian, thời gian của các đối tượng mà các em có thể
quan sát trong đời thực, hình dung suy nghĩ, xúc cảm của các nhân vật và yêu cầu các em biểu đạt những xúc cảm này. Việc biểu đạt không nhất thiết bằng ngôn từ mà có thể bằng
ngôn ngữ tạo hình,
ví dụ có thể yêu cầu các em nói về ấn tượng sâu đậm nhất đối với một sự vật nào đó, và yêu cầu vẽ lại đúng theo ấn tượng mà các em hình dung. Không gì kích thích trí tưởng tượng và năng lực tự định vị bản thân ở trẻ em hơn việc diễn đạt bằng
hình vẽ,
màu sắc trên trang
giấy trắng.
Cuối cùng là
dạy trẻ gắn kết bản thân mình với thế giới. Khi đứa trẻ trong trạng thái
buồn chán, hoặc tỏ
thái độ cố thủ trong thế giới riêng của mình và không muốn giao lưu,
kết nối với bên ngoài, thì hãy tìm cách mở rộng thế giới của các em. Hướng dẫn các em tập
thể dục,
chăm sóc người thân, hoặc làm những việc nhà trong gia đình. Đây đều là những cách thức
hiệu quả giúp tăng cường năng lực tự định vị bản thân, sự nhận biết cuộc sống một cách
khách quan hơn. Dạy trẻ cảm nhận những
tín hiệu trong lành của đời sống, như
hơi thở của
chính mình, hơi thở của người thân, để giúp các em sống trong tâm thế
tự chủ, cảm thấy rõ hơn sự hiện hữu của bản thân mình và mối gắn kết với không gian xung quanh.
Chúng ta thực hiện điều này và lắng nghe mỗi ngày. Khi trong từng
lời nói, câu chào, những
hành vi sinh hoạt thông thường nhất, có những chuyển biến tích cực về sắc thái biểu cảm; khi những tương tác hằng ngày trở nên tự nhiên hơn, giảm đi những ràng buộc ước lệ; khi những
thay đổi trong đời sống được thích nghi bằng tinh thần đối diện và khám phá thay vì lảng tránh, cố thủ, thì đó là căn cứ rõ ràng cho thấy các em đã gắn kết và thích nghi
tốt hơn với thế giới xung quanh mình.
Phạm Trần Lê
Ảnh đại diện: Tranh của Banksy