Bản thân
xã hội hiện nay cũng có cái nhìn
cởi mở hơn với
hình thức làm việc này.
Ví dụ điển hình là sự nổi lên của những
mô hình coworking (làm việc chung) nhằm giúp những đối tượng lao động kể trên có không gian làm việc ưng ý.
Được nhắc đến trong cuốn
Tương lai nghề nghiệp của tôi của tác giả Kim Rando, Ren được miêu tả như ví dụ điển hình nhất của thế hệ nhân công thích-xê-dịch tại
Nhật Bản .
Một ngày làm việc của Ren khá
khác biệt. Anh thường ra khỏi nhà từ sáng sớm, đến ngay cửa hàng
phục vụ đồ ăn nhanh để giải quyết bữa sáng và bắt tay vào lịch trình dày đặc của mình.
Việc đầu tiên là kiểm tra hòm thư điện tử, Ren nhận công việc qua e-mail và ngay lập tức tiến hành nhiệm vụ của
buổi sáng.
Đến trưa, khi cửa hàng đồ
ăn nhanh trở nên đông đúc, Ren tìm đến những cửa hàng tiện
lợi bớt ồn ào hơn. Ren thường ăn
cơm hộp tại những cửa hàng tiện lợi như vậy sau đó đi dạo trên phố để
đầu óc được
thư giãn, nhưng cũng có lúc, Ren tiếp tục
suy nghĩ về các
ý tưởng công việc ngay trong giờ
nghỉ trưa.
Đến chiều, Ren thường tìm cho mình chỗ
ngồi trong một quàn
cà phê nào đó để tiếp tục làm việc
hay đọc sách. Ren trao đổi công việc qua
email và thực hiện các cuộc hội ý hay thảo luận công việc qua
điện thoại di động do đó hầu như không có lý do gì để phải
gặp gỡ trực tiếp người khác. Dẫu vậy, chàng thanh niên này không thấy
cô đơn bởi anh cảm thấy tự do và hoàn toàn
thoải mái với cuộc sống của mình. Anh cho rằng đó là một lựa chọn
sáng suốt để có thể vừa làm việc, vừa
tận hưởng cuộc sống.
Một trong những địa điểm làm việc ưa thích của Ren cùng những nhân công
xê dịch như anh tại Nhật Bản là The Terminal ở Tokyo.
Đây là nơi được trang bị máy tính và các trang thiết bị văn phòng khác đáp ứng đầy đủ
tiện nghi của một không gian làm việc, dành cho tất cả những ai có
nhu cầu tới đây làm việc và được coi là “không gian làm việc chung”. Nhìn qua The Terminal không khác những
văn phòng làm việc bình thường là mấy nhưng thực chất, có mặt tại đây đều là những nhân công xê dịch có thể
thay đổi vị
trí của mình bất cứ lúc nào.
Khi được hỏi, hầu hết những người có mặt tại đây đều cho rằng ưu điểm lớn nhất cuả hình thức làm việc mới lạ này là được tự mình
quản lý thời gian một cách hợp lý. So với việc luôn phải sống trong cảnh tuân thủ theo đúng khung giờ đi làm và tan sở đã được định sẵn của một công ty thì những người này
tin tưởng chắc chắn rằng họ đạt
hiệu quả công việc vượt trội hơn hẳn khi được tự
quản lý quỹ thời gian của mình.
Kohei, một nhà thiết kế tự do cho biết: “Khi làm việc tại một công ty, ngày nào
bạn cũng phải tới sở vào lúc 9 giờ sáng và tan sở lúc 5 giờ chiều. Thế nhưng, có một
sự thật là không phải ý tưởng lúc nào cũng nảy ra trong đầu bạn trong khoảng thời gian từ 9 giờ sáng đến 6 giờ chiều mỗi ngày”.
Không chỉ Nhật Bản, một số nước châu Âu mà điển hình là Anh cũng đã triển khai
rộng rãi mô hình co-working. Trong khi tại Nhật Bản chỉ có dịch vụ cho thuê không gian làm việc đơn thuần thì những trung
tâm coworking tại Anh hơi khác một chút. Tại đây, các nhân công xê dịch không chỉ sử dụng chung một không gian làm việc mà còn được cung cấp kèm theo cả phần cứng lẫn phần mềm để trao đổi thông tin và
hợp tác trong công việc. Do đó, họ không làm việc riêng lẻ mà cùng cộng tác với những nhân công xê dịch khác.
Tại
Việt Nam hiện hình thức coworking cũng đang dần du nhập với sự xuất hiện của một số coworking lớn gồm Toong (Hà Nội), Hub.
IT (Hà Nội) hay
Work Saigon. Những địa điểm này được
kỳ vọng sẽ trợ giúp đắc lực cho
giới trẻ Việt Nam,
khuyến khích họ tự do làm những việc mình ưa thích.
Tìm hiểu thêm: