Đầu tiên thì có thế hệ Boomers là thế hệ
được sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số. Tiếp đến là
Thế hệ X (Gen X) được biết đến kể từ tác phẩm "Thế hệ X: Những câu chuyện
cho nền
văn hóa đang
phát triển" của Douglas Copeland xuất bản năm 1991. Và bây giờ như một bước logic tiếp theo chúng ta có
Thế hệ Y.
Thế hệ Y là gì?
Truyền thông gắn liền triển vọng của thế hệ này với năm 2000 - năm bản lề giữa hai thiên niên kỷ và
do đó họ có tên là thế hệ Millenials. Các tác giả William Strauss và Neil Howe đã viết về thế hệ Millennials trong cuốn
sách "Generations: The History of America's Future, 1584 to 2069" (Tạm dịch: Các thế hệ: Lịch sử của
tương lai nước Mỹ, 1584 đến 2069). Năm 1987, họ là những người đầu tiên đưa ra khái niệm thế hệ Y, dùng để chỉ "những đứa
trẻ được sinh ra gần năm 1982, đang bước vào trường
học". Strauss và Howe sử dụng năm 1982 là năm đầu tiên thế hệ này được sinh ra là năm 2004 là năm cuối cùng.
Cụm từ thế hệ Y (Generation Y) lần đầu tiên xuất hiện vào tháng 8/1993, trong một bài báo của tờ Ad Age. Cụm từ này được dùng để mô tả những đứa trẻ của "thời đại ngày nay" và lấy năm 1982 là mốc
bắt đầu có những đứa trẻ thế hệ Y được sinh ra.
Thế hệ Y còn có một vài cái tên khác như Generation We (thế hệ chúng tôi), Global Generation (thế hệ toàn cầu), Generation Next (thế hệ tiếp theo)
hay Net Generation (thế hệ
Internet). Đôi lúc họ cũng được gọi là thế hệ Echo Boomers, ám chỉ rằng thế hệ này có quy mô đông đảo tương đương với Baby Boomer.
Tháng 5/2013, tạp chí Time có chùm bài viết về thế hệ này, định
nghĩa họ là những người sinh ra từ năm 1981 đến 2000.
Còn Viện
nghiên cứu Pew của nước Mỹ định nghĩa thế hệ Y được sinh ra trong các năm từ 1981 đến 1997.
Nguyên nhân của sự
khác biệt này là bởi vì khi nói đến việc xác định một thế hệ thì ranh giới giữa các thế hệ là không rõ ràng lắm. Nó không giống như kiểu bật một công tắc chuyển thế hệ thì tất cả các em bé mới sinh ra sau đó đột nhiên
thay đổi đặc tính của chúng.
Tuy nhiên, khi 80 triệu đứa trẻ lớn lên trong thập niên 80 và 90 và bắt đầu
trưởng thành thì những đặc điểm chung cũng dần được thể hiện để phân biệt với Gen X đi trước.
Sự khác biệt lớn nhất giữa thế hệ X và Y là những
trẻ em ở thời thế hệ X thường được gọi là thế hệ bị bỏ rơi – được
nuôi dưỡng tại một thời điểm khi mà cả bố và
mẹ đều phải đi làm và để những đứa bé tự xoay sở ở
nhà một mình. Trong khi đó thế hệ Y được coi là thế hệ nhận được sự
chăm sóc của
bố mẹ đầy đủ nhất trong lịch sử. Họ cũng là thế hệ có nhiều thanh niên nhất trong lịch sử - lớn hơn 3 lần so với Thế hệ X.
Những đặc điểm của Thế hệ Y
Có lẽ cũng giống như tất cả những thế hệ đi trước, các thành viên Thế hệ Y là bức khảm
chân dung đầy xung khắc. Và có lẽ điểm nội bật trong số đó chính là sự
lạc quan không ngừng cho dù họ phải lớn lên ở thời điểm khi mà phải chứng
kiến học sinh bắn gục học sinh khác ở
trường học và khi mà khủng bố lao
máy bay vào những tòa cao ốc. Nhưng dường như thay vì tỏ ra
sợ hãi và thu mình lại thì thế hệ này lại luôn tràn ngập sự lạc quan và những
suy nghĩ tích cực. Điều này dường như cũng xuất phát từ một
triết lý rằng bất cứ điều gì cũng có thế xảy ra nên hãy
tận hưởng từng giây phút khi bạn còn
có thể.
Chứng kiến bố mẹ li hôn và những người bạn của mình bước ra khỏi phòng thay đồ như một người
đồng tính, Thế hệ Y dần đã trở thành một trong những thế hệ
cởi mở nhất trước bất cứ những thay đổi nào. Trên
thực tế, 93% ủng hộ những
mối quan hệ giao lưu giữa các chủng tộc.
Tuy nhiên, mặc dù có khuynh hướng
tự do những thành viên của thế hệ Y có
xu hướng cầu toàn hơn nhiều so với Thế hệ X đi trước. Họ muốn thay đổi cả
thế giới, nhưng họ đang
hạnh phúc khi mặc những chiếc quần jeans "sành điệu" và đi giày thể thao như bao người bạn của mình.
Do những phản hồi
tích cực và ngợi khen không ngừng mà Thế hệ Y nhận được trong suốt
cuộc đời của họ, những
người trẻ tuổi của thế hệ này có xu hướng cực kỳ
tự tin – nếu không nói là quá tự tin. Họ có xu hướng gia nhập lực lượng
lao động với
kỳ vọng rất cao về bản thân và cả về người thuê họ, và họ thường có
kế hoạch để thay đổi một cách có
hiệu quả tại
công ty từ ngày đầu tiên đi làm. Họ cũng thường có những kỳ vọng mức
lương cao hơn nhiều so với vị
trí mới vào, mặc dù điều này đã được
trải nghiệm phần nào qua cuộc Đại suy thoái.
Ngoài ra, do nhiều thành viên khác của thế hệ này đã về nhà sau khi
tốt nghiệp đại học (mọi người cho họ một biệt
danh là Thế hệ Peter Pan bởi vì họ chưa thực sự "trưởng thành" và đi ra ngoài một mình cho đến những năm đầu của tuổi 30) nên họ có nhiều
cơ hội nhảy từ
công việc sang công việc cho đến khi họ tìm thấy một công việc
phù hợp với họ. Sự không
sợ hãi này có xu hướng làm cho họ trở nên mạnh dạn và không lo ngại về các
ông chủ.
Trong khi sự bảo đảm về
nghề nghiệp có thể không được ưu tiên đối với
các bạn trẻ Thế hệ Y, nhưng sự bảo đảm
tài chính chắc chắn là có. Thường thì khi xem bố mẹ mình
mất rất nhiều trên
thị trường chứng khoán hoặc sau các vụ
thất bại trên thị trường bất động sản, Thế hệ Y có xu hướng học hỏi và
hiểu biết về
tài chính nhiều hơn.
Tuy nhiên, thế hệ này có xu hướng tích trữ tiền - và công việc - trong vị trí của nó. Thế hệ Y
suy nghĩ rằng
làm việc để
sống chứ không phải sống để làm việc. Họ thích làm một công việc
thú vị có thể kiếm được ít tiền nhưng cho phép họ có nhiều
thời gian ở ngoài
văn phòng (hoặc
làm việc tại nhà) hơn là bị gò bó trong một ngày làm việc 12 giờ để có một mức lương 6
con số.
Tóm lại, Thế hệ Y muốn tìm kiếm những công việc mang lại cho họ nhiều
cơ hội để thay đổi và phát triển - cả về chuyên môn lẫn
con người. Họ mong muốn những phản hồi nhanh trong công việc (giống như khi nhắn sms cho
bạn bè và được
trả lời trong vòng vài giây hoặc khi bài viết của mình được đăng trên
Facebook thì nhanh chóng nhận được rất nhiều “Like”).
Họ không muốn trở thành
bánh răng trong một cỗ máy của công ty, và cũng không muốn bị chỉ bảo phải làm gì bởi một ông
sếp độc đoán. Họ muốn định hình và được định hình bởi kinh nghiệm làm việc mỗi ngày của họ - và nếu trải nghiệm đó có thể là được làm việc với bạn
bè của họ trong một
môi trường vui vẻ và
thoải mái thì càng tốt hơn rất nhiều.