Nội dung sau
được trích nguyên văn từ cuốn Phát triển năng lực và thăng tiến trong doanh
nghiệp Nhật Bản của Yukio Okubo.
Ngộ nhận thứ nhất: Có thể dễ dàng hướng tới các mục tiêu trong công việc mà thẳng tiến
Có thể nói, đây là thời đại không cần phải
suy nghĩ quá nhiều về việc bản thân muốn làm gì, chỉ cần
nỗ lực đóng góp
cho công ty là được. Vì vậy,
bạn không cần phải
suy nghĩ quá nhiều về những chuyện như bản thân thực sự muốn làm nghề gì.
Hầu hết lao động từ 30 – 60 tuổi
hiện tại đều không biết bản thân muốn
làm việc gì trước khi đi
xin việc. Họ chỉ đến những công ty được giới thiệu, dự buổi
nói chuyện dạng
phỏng vấn và trước khi định thần việc gì đang diễn ra, họ đã bắt tay ký hợp đồng
tuyển dụng với công ty đó.
Tuy nhiên, suy nghĩ
nghiêm túc về những việc mình muốn làm cũng mang một
giá trị nhất định. Chọn ngành nghề là
lựa chọn to lớn, cần xác định công ty đó phải thế nào? Công việc phải ra sao? Trong lúc suy nghĩ, bạn có thể đi
làm thêm và nghe những người có sẵn
định hướng chia sẻ kinh nghiệm của họ.
Bắt đầu từ việc “trèo xuống”, sau đó mới “trèo lên” núi là cách phát triển
sự nghiệp lý tưởng.
Ngộ nhận thứ hai (ngộ nhận liên quan đến trình độ học vấn): Có lợi thế tìm việc và đổi việc nếu có trong tay tấm bằng cử nhân đại học hoặc cao đẳng
Nhiều người ngộ nhận rằng chỉ cần
tốt nghiệp đại học là sẽ tìm được việc
tốt hơn những người chỉ có bằng tốt nghiệp trung học. Nhưng trong
thực tế, từ sau năm 1998, lượng sinh viên
ra trường tìm việc còn lớn hơn lượng
học sinh tốt nghiệp cấp 3 tìm
việc làm. Do đó, việc
tốt nghiệp đại học thật ra không mang đến giá trị cao.
Với thực trạng ngày càng có nhiều thạc sĩ, kể cả khi bạn có tấm bằng này đi nữa thì nó cũng không có mấy giá trị trên
thị trường lao động (trừ các
nhà khoa học nổi tiếng với các kỹ năng được mài giũa
khôn khéo). Cho nên, học cao học với
mục đích có
lợi thế hơn so với người khác không có nhiều
ý nghĩa.
Do đó, nếu tham gia học cao học với mục tiêu
sai lầm, bạn đã phí phạm cả
thời gian 2 năm học lẫn học phí đắt đỏ phải bỏ ra.
Ngộ nhận thứ ba: Có các chứng chỉ là mọi chuyện sẽ ổn
Không sai khi nghĩ rằng
bằng cấp một phần nào đó có liên quan đến
khả năng làm việc. Tuy nhiên, trong thực tế, kinh nghiệm và các kỹ năng trong công việc lại là những thứ thông thường bạn
không thể học được khi học để lấy những bằng cấp đó. Do đó, đứng trên góc độ
nhà tuyển dụng, họ vẫn “trọng kinh nghiệm hơn bằng cấp”. Như vậy, trong công việc, kinh nghiệm vẫn là yếu tố quan trọng.
Thêm nữa, bạn sẽ phải bỏ ra nhiều thời gian học để lấy các loại bằng cấp, chứng chỉ, và hầu hết chúng đều không được cải tiến thường xuyên để
phù hợp với khuynh hướng thời đại. Nên, các loại bằng cấp, chứng chỉ này không thể trở thành “át chủ bài” trong quá trình tìm kiếm việc làm.
Ngộ nhận thứ tư: Chắc chắn sẽ trở thành “nhân viên chính thức”
Nhiều người có khuynh hướng nghĩ rằng việc bản thân trở
thành nhân viên chính thức là điều đương nhiên.
Cụm từ “nhân viên chính thức” bắt đầu được sử dụng ở Nhật Bản vào năm 1955, ý chỉ những nhân viên làm công với một công việc
ổn định, với hệ thống thuế,
bảo hiểm,
lương hưu… được điều chỉnh theo một
hình mẫu chung.
Tuy nhiên, đến nửa sau thập kỷ 90, số lượng nhân viên không chính thức đã vượt trên 30% trong tổng số nhân viên làm công. Những người lựa chọn con đường làm việc nhưng không phải làm công – được gọi là “free agent” - ngày càng tăng cao. Chỉ trong 5 năm, số lượng nhân viên chính thức giảm 4 triệu người. Vì vậy, chúng ta cũng nên nghĩ đến các phương án làm việc khác hoặc
kinh doanh riêng, thay vì chỉ chăm chăm muốn trở thành người làm công
ăn lương ổn định.
Dù vậy, vẫn cần nắm vững các điểm mạnh, yếu của từng
cách làm việc, từ đó đưa ra sự lựa chọn đúng đắn. Chẳng hạn, nếu hiểu rõ
bản chất của việc làm bán thời gian, những người có lựa chọn
nghề nghiệp về mảng
nghệ thuật như làm ca sĩ, thì làm việc bán thời gian trong một thời gian để kiếm
sống là một lựa chọn
sáng suốt.
Còn những người làm việc bán thời gian mà cứ nghĩ rằng có thể
thoải mái nhảy việc vì dễ dàng tìm việc khác, làm việc trong thời gian ngắn cũng đủ rồi… thì sẽ tự thu hẹp con đường sự nghiệp của mình lại.
Có nhiều cách lao động
kiếm tiền, dù bạn không nhất thiết phải trở thành nhân viên chính thức của một công ty nào đó, nhưng việc lựa chọn cho bản thân một hướng đi phù hợp nhất rất quan trọng.
Ngộ nhận thứ năm: Không thể đổi việc sau tuổi 35
Trong công việc, độ tuổi có thể không đóng vai trò quan trọng, có lẽ chế độ thăng tiến sẽ
hoàn hảo hơn nếu không bị hạn chế bởi độ tuổi hoặc chế độ lương theo thâm niên. Tuy vậy, có rất nhiều công việc cần đến kinh nghiệm và thâm niên trong nghề. Bạn cần đáp ứng một số
điều kiện nhất định để đập tan “bức tường tuổi tác”:
(1) Cần nắm vững một chuyên môn có thể sử dụng trong
cơ cấu công ty và xác định công ty nào sẽ
trọng dụng chuyên môn đó, bởi vì năng lực của bạn có thể được công ty này tin dùng nhưng lại không được đề cao ở một công ty khác.
(2) Cần phát triển và
rèn luyện khả năng lãnh
đạo, vì vị
trí tuyển dụng trên 35 tuổi thường là
quản lý hay giám đốc – những người đã có kinh nghiệm hoặc khả năng làm quản lý.
Ngộ nhận thứ sáu: Những người không có khả năng quản lý thì nên trở thành chuyên viên
Đối với nhiều người, việc trở thành người biết mọi thứ một cách khái quát – thành quản trị viên, hoặc người biết chuyên sâu về một mặt nào đó – một chuyên viên, giống như
quyết định chiến đấu để
chiến thắng hoặc rơi vào
thất bại.
Sự thật không phải vậy.
Quản lý là kỹ năng không thể thiếu đối với một chuyên viên hàng đầu, vì bạn không thể làm mọi thứ một mình. Nếu trở thành quản lý
dự án, bạn có thể
tập trung nhiều nhân lực và
trí lực để đạt nhiều
thành tựu hơn. Điều này đúng với mọi ngành nghề. Nếu cứ phân loại theo hướng những
người giỏi quản lý cơ cấu sẽ thành quản trị viên hay lãnh đạo, còn những người không
giỏi sẽ thành chuyên viên thì nền
kinh tế tương lai không thể phát triển vượt bậc được.
Ngược lại, nếu bạn dấn thân vào con đường quản trị và
điều hành, bạn cũng cần trở thành một chuyên viên về quản lý. Để trở thành nhà quản trị hàng đầu, bạn cần có
kiến thức về
tài chính kế
toán,
marketing, quản trị nhân lực, quản trị
chiến lược, quản lý
rủi ro, luật thương mại,
triết lý quản lý, và cuối cùng là
hiểu biết về các
mối quan hệ trong và ngoài ngành. Có tất cả những thứ đó, bạn chắc chắn sẽ trở thành một nhà quản trị hàng đầu.
Bài viết hay có thể bạn muốn xem: